NHỮNG TÁC PHẨM CỦA TÁC GIẢ: THÁI TOẢN

LÀNG BÊN NGÃ BA SÔNG
Dẫu biết quy luật xây dựng là để phát triển, nhưng 20 năm qua, kể từ ngày huyện Quảng Ninh về nơi "Đò xưa bến cũ", làng Trần Xá nằm bên ngã ba sông Kiến Giang- Đại Giang- Nhật Lệ từng bước đổi thay, phát triển hơn nhiều.
Hồi còn nhỏ, tôi thường nghe ông ngoại và ba cụ cao niên khác trong làng ngồi uống trà buổi sáng nhàn đàm về sự hình thành của làng. Các cụ hết lời tâm phục khẩu phục các bậc tiền liệt, khai khẩn các họ Võ Văn, Đỗ, Nguyễn Mậu, Hoàng rồi đến sau đó các họ Nguyễn Đức, Nguyễn Văn, Võ Hữu, Phạm, Trần Quang... khoảng 540 năm về trước trong đoàn quân nam chinh đã khai canh, định cư lại nơi đây sinh cơ lập nghiệp, hình thành cư dân làng Trần Xá. Nằm bên ngã ba sông: Kiến Giang, Đại Giang, Nhật Lệ và bên kia sông là dãy Trường Sơn, làng Trần Xá xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh muôn đời được núi sông ôm ấp chở che. Nếu ai có dịp qua rú ngang, trèo lên Đôộng Trửa với độ cao chừng 250m, nhìn về nơi ngã ba sông, mới cảm nhận được vẽ đẹp của miền quê này. Sông Kiến Giang và sông Nhật Lệ muôn đời như dải lụa xanh mượt vắt qua làng Trần Xá mang nặng hồn quê. Ông Nguyễn Bá Tuynh nghe ông nội kể, lúc mới khai sinh, làng Trần Xá được ngài thủy tổ họ Võ Văn chọn vùng đất ở phía bắc của làng hiện nay để định cư, làng được nằm dăng ngang theo hướng đông- tây. Về sau, ngài Đỗ Kim Quy- thủy tổ họ Đỗ là người giỏi thuật phong thủy, chọn vùng cát địa(đất tốt) vận động dân làng dời lên, định cư bên ngã ba sông cho đến ngày nay. Để chống xói lở và theo thuật phong thủy, các ngài thủy tổ cho dân làng lấy đá kè dọc bờ sông và cho đầu nhọn của đá chỉa ra phía ngoài sông. Làng quay mặt về hướng tây nam là hướng hỏa nên các ngài cho đào ao chứa nước dọc theo các đường trôổng. Làng có hồ nước không đào sâu nhưng nước luôn ngọt ngào, mát trong; quanh năm suốt tháng, kể cả nắng hạn găy gắt hồ vẫn không khô nước, Ngoài ra, trong làng còn có giếng Thùng, giếng Đa, giếng Chùa, có đình làng bên bờ Nhật Lệ, có chùa ở dưới làng, có miếu thờ các vị thần làng...Qua bao cuộc bể dâu, chìm nổi, đất làng Trần Xá không những không bị xói lở mà ngày càng được bồi trúc tốt tươi. Từ buổi sơ khai, làng có 4 dòng họ mà đến tận bây giờ làng có 21 họ lớn nhỏ không thiếu, không dư. Các họ tộc mỗi năm một sinh thêm con đàn cháu lũ, làng xóm nhộn nhịp sum vầy.
14
Ngày xưa, làng Trần Xá còn được gọi Kẻ Tràn, sau đó đổi tên làng Nhà Tràn. Cho đến nay, nhiều bậc cao niên ở các huyện trong tỉnh hay ngoài tỉnh, nếu nói làng Trần Xá chắc gì đã biết, nhưng hễ nói ở làng Nhà Tràn thì họ "à, à, biết" ngay.
Thời phong kiến, sau khi thôi làm quan dưới triều vua Tự Đức, về làng ông quan Đề tổ chức họp dân, lập hương ước, quy định nếp sống làng quê, nêu ý muốn làng cần phải làm một con đường rộng, chạy dọc làng. Đường được lướt đá liếp khai thác trên Bến Tiêm, thượng nguồn sông Đại Giang. Để bảo vệ con đường, Quan Đề đưa ra quy định, nếu trâu bò ai đi trên đường đá thì phải chịu phạt theo hương ước, cả làng đồng thuận. Vài ngày sau, quan bảo người chăn trâu của Quan lừa một con trâu đực to béo cho đi trên đường. Nhiều người dân bắt gặp, chạy đến nhà Quan thưa chuyện, Quan bảo trâu của Quan mà đi trên đường thì phải chịu phạt nặng hơn trâu của dân, phải bắt làm thịt cả làng cùng ăn để chứng kiến. Với việc làm của Quan Đề, từ đó về sau không hề có một con trâu, con bò nào của dân đi trên con đường làng. Mặt khác, để ngăn chặn những trường hợp con gái trong làng không chồng mà cũng có con, Quan nêu quy định, nếu chị em nào không lấy chồng mà có thai thì phải chịu lên Bến Tiêm, khai thác một hòn đá hình chữ nhật, cở như đá lướt trên đường, đưa về lướt thay thế hòn nào bị hư hỏng. Để ghi nhớ công lao của Quan Đề, làng Trần Xá đặt tên con đường đó là đường Quan, tên đường được gọi cho đến ngày nay, mặc dù đường Quan nay đã được bê tông rộng, đẹp...
4
Trong những năm 1947, 1948, từ Đồng Hới, thực dân Pháp đã càn lên Trần Xá, cho xây tại đây 4 lô cốt trong làng và 2 lô cốt ngoài cồn nổi ở ngã ba sông để án ngự, chiếm giữ, phong tỏa. Những năm chiến tranh chống Mỹ, giữa ngã ba sông Trần Xá và dọc sông Nhật Lệ, Kiến Giang, bọn Mỹ ném thủy lôi xuống dày đặc, dân làng phải đối mặt với thủy lôi, đạn bom chà xát, làng xóm xác xơ, hoang lạnh. Thế nhưng, cũng như bao miền quê khác trên dãi đất hẹp miền trung, trên dãi đất hình chữ S, chiến tranh càng làm cho con người chúng ta bền bĩ, kiên trung, vững vàng và hôm sớm bên nhau.
Nước ngoài sông có lúc xuống, lúc lên nhưng người Trần Xá vẫn mãi mặn mòi, sương gió; vẫn mãi ra sông ngắm núi Thần Đinh đa Phật sừng sững ở phía tây nam và núi Đầu Mâu đa Tiên chót vót xa tít chân trời phía tây để càng rõ hơn làng quê thanh khiết đa mang.
Hai mươi năm qua, kể từ ngày huyện Quảng Ninh tái lập, cùng với sự nghiệp đổi mới, làng Trần Xá như có gió mát từ nước sông thổi vào, có thêm sinh khí, sức sống trẻ tươi. Đời nào cũng vậy, dải đất bên ngã ba sông này luôn sinh ra nhiều người con năng động, luôn biết tìm hướng làm giàu cho gia đình và giúp đỡ bà con làng xóm. Năm 1996, khi nghề nuôi tôm ở trong huyện, ngoài huyện Quảng Ninh bắt đầu khởi động, vùng đất Cồn Hà nhiễm mặn của Trần Xá phía bên kia sông Nhật Lệ bấy lâu chỉ biết trồng sắn, trồng khoai với năng suất không đáng kể, lại bấp bênh cũng đã được các ông Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Đức Đơ vận động 4 hộ dân đấu thầu, đào ao hồ nuôi tôm. Ông Nguyễn Đức Đơ, sau gần 30 măm bụi phấn vương vấn mái đầu, vừa giã từ bục giảng đã nhúng tay vào nghề "nuôi tôm". Làng Trần Xá, ai lạ gì đức tình hiền lành, vui vẽ và siêng năng, chịu khó cở "không có đối thủ" của ông Đơ. Thời năm 1987, nhiều dân "sơn tràng" đã kể, có lần, kỳ nghĩ hè, thầy Đơ đang bị đau sốt rét mà vẫn xin mấy người đi làm "săng"(gỗ) ở "rú trên"(rừng thượng nguồn sông Long Đại). Đẽo săng xong, đỡ lên vai không tài nào nổi, thầy nhờ mọi người đỡ lên, hai chân chạng qua chạng lại, lắc lư, cứ thế mà thầy Đơ vác phác săng đó ra tận bến sông. Còn nói chuyện thầy đi trầm hương, trước chuyến đi đầu tiên của kỳ nghỉ hè, sáng nào mọi người cũng thấy thầy Đơ mang trên vai một ba lô gạch tập đi bộ lên xuống dọc đường Quan khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ để làm quen với cùi gạo, thức ăn, áo quần, chăn màn và dụng cụ khai thác...
4d9da3bdb05d55030c4c

Nuôi tôm, vợ chồng ông Đơ, bà Thí như cặp uyên ương "tìm thêm quả ngọt". Ông Đơ đã làm thì khỏi phải bàn, ai cũng nễ, ông dãi dầu nắng mưa, hôm sớm. Mới đầu tháng năm mà người ông như có hắc ín nhuộm vào, tóc thì đừng có hỏi, xờm lên như "đống rơm khô" lâu ngày không ẩm ướt. Ông Đơ nói, đã làm việc gì chúng ta cũng phải chịu khó, biết học hỏi, năng động và phải nắm chắc kỹ thuật. Ngoài ra, nghề nuôi tôm phải chấp nhận vất vã, nếu không hội đủ các đức tính, yếu tố đó sợ rằng "tiền mất tật mang", bỏ vốn ra nhiều mà mất mùa tôm thì đắng lắm. Tôi hơi đùa, nghe nói vụ đầu ông "bắt cá"? Ông cười toáng lên- có chứ. Đời nào, mới đầu con tôm giống thì nhỏ li ti mà những tấm sáo chắn ở cửa cống mình lại bện to, thưa nên con tôm trong hồ nó thản nhiên lọt sáo ra ngoài, cá nhỏ ngoài sông, ngoài hói thì lại chui vô; mình không để ý, cứ thế cá trong hồ lớn lên. Vậy là cuối vụ tui thu hoạch cá. Khà khà khà.
4 1
Ngoài vụ đó, các vụ khác được mùa chứ! Ông lại cười, được chứ. Những năm nuôi tôm sú bán thâm canh ở Cồn Hà( hay Hói Hà), hầu hết tui đều có lãi từ 20 triệu đến 30 triệu đồng mỗi vụ. Đó là tui nuôi còn ít. Có vụ, thằng Nguyễn Đức Tuyến, cháu tui thu lãi trên 100 triệu đồng, anh Nguyễn Văn Đường lãi 140 triệu đồng... Với nuôi tôm, đất nhiễm mặn ở Cồn Hà làm ra khối tiền. Nhờ nuôi tôm ở Cồn Hà, các hộ gia đình đều khấm khá nhiều, có của ăn của để. Thằng Bình, thằng Tuyến làm được nhà cao tầng và mua sắm nhiều tiện nghi khác...
Từ 4 hộ ở Trần Xá đi đầu nuôi tôm ở Cồn Hà, những năm sau đó xã Hàm Ninh đã có nhiều hộ nuôi và cho thu nhập cao, đến vụ tôm năm 2010, Hàm Ninh có gần 40 hộ nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh trên diện tích 28 ha ở Cồn hà, vùng Hói Am, vùng hói Trúc Ly.

Lâu lắm rồi, đồng ruộng Trần xá luôn được dân "nông tri điền" trong vùng và cả trên huyện Lệ Thủy biết đến bởi lúa luôn được mùa, năng suất cao hơn nhiều nơi khác. Nhưng khổ nổi, là cho đến nay đồng ruộng "bán tử địa" này mỗi năm chỉ gieo cấy được một vụ lúa đông xuân. Còn vụ hè thu đồng khô cỏ cháy, cả một cánh đồng đất nứt ra toang hoác, không gieo trồng được một thứ cây gì để cho thu hoạch bởi "nước ơi!". Vậy mà, ai ngờ, sau những năm tháng "mưu sinh" ở vùng đất Khánh Hòa, vụ hè thu năm 2005 anh Nguyễn Đức Sinh mang về gieo xuống 6 sào dưa hấu giống An Tiêm1 trên đồng đất cháy khô này. Anh cù rũ người chú ruột Nguyễn Đức Bình cùng hai anh trai là Nguyễn Đức Hiếu và Nguyễn Đức Vỹ, gieo mỗi sào 400 khóm dưa trên 5 luống, vụ thử nghiệm đó anh Sinh cùng chú và hai anh trai thu được mỗi sào 2,5 triệu đồng, tính ra, mỗi ha thu nhập 50 triệu đồng. Khâu đột phá của anh Nguyễn Đức Sinh đã trở thành mô hình chuyển đổi cây trồng kỳ diệu trên đồng đất lúa một vụ ở làng Trần Xá.
Ngồi với tôi, ông Hà Xuân Tập- Phó chủ tịch UBND xã Hàm Ninh cho hay: Từ mô hình trồng dưa hấu trên đất lúa một vụ của anh Nguyễn Đức Sinh, địa phương chúng tôi đã triền khai nhân rộng ra nhiều thôn khác trong xã. Người dân chúng tôi được tập huấn chuyển giao kỹ thuật làm đất, lên luống, phủ ni lon, chọn giống, gieo trồng, chăm sóc...Vụ hè thu năm 2009, chúng tôi có đến 95 hộ trồng dưa hấu trên diện tích 26 ha. Không những vụ hè thu, nhiều người dân đã mạnh dạn trồng dưa hấu ngay cả vụ xuân hè. Vụ xuân hè năm 2010, xã Hàm Ninh có đến 43 hộ trồng trên diện tích gần 19 ha. Từ Hàm Ninh, hai xã Xuân Ninh và Hiền Ninh cũng chuyển đổi một số diện tích có năng suất lúa bấp bênh sang trồng dưa, cũng được mùa dưa lắm.
14 1
Tôi dò hỏi, nghe nói, người tiêu dùng trong huyện và cả ở Đồng Hới, Bố Trạch, Lệ Thủy thích dưa hấu Hàm Ninh lắm? Như đúng ý, ông Phó chủ tịch xã lý giải: Té ra, đồng đất thịt Hàm Ninh mà thích hợp với dưa hấu. Dưa Hàm Ninh thì khỏi phải bàn. Quả dưa to, dài, võ dưa mỏng, dưa đỏ, chắc dòn, ăn ngọt lịm. Ai mà không ưng ăn, đặc biệt những ngày nắng to. Có mấy người buôn ở các nơi xa, chưa hề biết Hàm Ninh mà cũng phải bằng mọi cách, người và xe cũng về đến đồng dưa Hàm Ninh để mua cho được.
Được biết, vụ dưa nào ở thôn Trần xá cũng có nhiều hộ trồng hơn, diện tích trồng nhiều hơn? Tôi tiếp lời. Ông phó chủ tịch xã cho biết, Hàm Ninh có 5 thôn thì đã có 4 thôn Trần xá, Quyết Tiến, Trường Niên, Hàm Hòa trồng dưa, trong đó, vụ nào số hộ trồng và diện tích trồng ở Trần Xá cũng nhiều nhất, chiếm hơn một nửa. Vụ dưa năm 2009, trung bình mỗi ha dưa hấu cho thu nhập 75 triệu đồng, trừ các khoản chi phí, mỗi ha lãi ròng 50 triệu đồng, chưa kể tiền bán dưa non và dưa tái sinh. Vụ dưa đó, ở Trần xá có hộ ông Võ Đồng và hộ ông Nguyễn Văn Hòa có tổng thu nhập mỗi hộ trên 140 triệu đồng, trừ chi phí, lãi trên 90 triệu đồng. Ông phó chủ tịch xã nói tiếp, mấy lâu nay, đến vụ hè thu các nơi khác gieo cấy lúa còn dân Hàm Ninh thì cứ ngửa mặt lên trời, trời vẫn trong xanh, nắng vẫn chói chang, đồng vẫn khô cháy. Từ năm 2005 đến nay đã đổi khác rồi; trời vẫn thế, đất vẫn thế, nhưng đất như có nhịp điệu, chuyển mình không yên nghỉ. Người trồng dưa ngày đêm đau đáu nhìn ra ruộng dưa mà sung sướng chờ mong ngày vỗ bộp hái quả. Nói về vụ hè thu, hiện nay chúng tôi chỉ biết thu vào có lãi chứ không so với trồng lúa vì đất bỏ hoang, có gieo cấy lúa đâu mà để so sánh.
22
Ngoài hai mô hình nuôi trồng thủy sản và trồng dưa hấu trên đất lúa một vụ mà người dân Trần Xá mạnh dạn đột phá, mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhân rộng ra trong xã và các nơi khác trong huyện, những năm qua làng bên ngã ba sông này cũng đã đồng lòng chung sức bê tông hóa đường làng, ngõ xóm. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", dẫu tỷ lệ đầu tư của huyện Quảng Ninh mỗi thời điểm mỗi khác nhưng Trần Xá luôn phát huy ý thức làm chủ và sức mạnh của người dân, vẫn lần lượt bê tông từ đường Quan cho đến 19 đường xóm. Khởi đầu từ năm 2004, đến năm 2010 tất cả đường làng, ngõ xóm ở đây đều được cứng hóa bằng bê tông.
Một điểm mạnh nữa của làng bên ngã ba sông là cái tâm của con em ở xa quê quá trong sáng, luôn đau đáu hướng về cội nguồn, nơi "chôn nhau cắt rốn", nơi có "bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn", nơi có cha nắng cháy sạm da, gồng lưng lo cho con lưng cơm bát cháo, nơi tuổi thơ hái củi, chăn trâu, nơi có cây đa bến nước... Mỗi người mưu sinh mỗi nơi, nhiều người đã "nên cháo nên cơm", tất cả trong tâm thức họ đều chung tay "kẻ ít người nhiều" nâng cấp khuôn viên nhà văn hóa thôn, tôn tạo Giếng Thùng, xây bến sông của làng nơi ngày nhỏ có hai cây đa mấy trăm tuổi, có bến đò ngang...Và, mới đây, ngày 1/9/2009, làng khánh thành công trình cổng làng với tổng vốn 240 triệu đồng thì con em xa quê đã đầu tư hết 200 triệu rồi.
Dẫu biết quy luật xây dựng là để phát triển, nhưng 20 năm qua, kể từ ngày huyện Quảng Ninh về nơi "Đò xưa bến cũ", làng Trần Xá nằm bên ngã ba sông Kiến Giang- Đại Giang- Nhật Lệ từng bước đổi thay, phát triển hơn nhiều. Cái thời ai nấy trong mỗi gia đình hàng ngày lặn lội chỉ lo cho cái ăn mà đã vắt kiệt cả mồ hôi, thân xác nhưng vẫn túng quẩn "nghèo rớt móng tơi" qua rồi. Cái thời mà cuộc sống truân chuyên kiếp người lận đận, vẹo xiêu đã trôi rồi. Ngày nay, làng xóm không còn tiếng thở than đâu đó trút ra từ bên trong những căn nhà hun hút gió lùa nữa rồi. Làng bên ngã ba sông thật sự đổi đời, mức sống của người dân vượt xa so với thời kỳ mới đầu thực hiện đổi mới. Nhà hai tầng lần lượt mọc lên, xe máy nhà nào cũng có, có nhà có đến hai chiếc, 3 chiếc... Đường trong thôn rộng mở, đêm đêm điện đường sáng trưng, nhịp sống sôi động. Sau mỗi năm, làng xóm tươi mới hơn, trẻ trung hơn. Cứ 5 năm một lần, dòng họ nào cũng tổ chức lễ Chầu Lề để con cháu nội, ngoại, gần xa có dịp về nơi nguồn cội chầu hầu, tri ân các bậc liệt tổ liệt tông và tình cảm dòng tộc càng thêm đậm đà hơn. Mỗi lần như thế, cũng là dịp họ tộc góp xây thêm quỹ dòng họ, quỹ khuyến học, khuyến tài; giúp nhau xây dựng gia đình văn hóa, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư...
Trên đời này, ai sinh ra và lớn lên đều biết "Quê hương biết mấy thân yêu" để thương, để nhớ, để dựng xây. Bao lớp người chân chất, mộc mạc ở làng bên ngã ba sông Trần Xá cũng vậy, luôn tri ân các bậc liệt tổ liệt tông khai khẩn ra làng để có hôm nay con cháu lớn khôn cùng "chia bùi xẽ ngọt" , "chung tay phổ nên bộp" để làng xóm khang trang, đủ đầy.
Sau mỗi ngày với công việc, ra bến sông của làng, được ngã lưng thanh thản, ngắm cảnh non xanh nước biếc, chúng ta mới cảm nhận thêm sự giao cảm của nước non. Bao cảm xúc ùa về, lòng ta mới thấu đáo hơn "Quê hương là chùm khế ngọt"

                                  T.T

Nguồn tin: Bên ngã ba sông Trần Xá, tháng 5 năm 2010



50 NĂM - CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ

                                                                                                              Hồi ký : Nguyễn Mậu Trường.

   Tờ mờ sáng ngày mồng 5 tháng 3 năm 1975, tên lính cận vệ của tôi hớt hải vào lều quân sự báo tôi lên gặp đại đội trưởng gấp. Tôi nhanh chóng lên Ban chỉ huy, khi vào lều chỉ huy của tên trung úy Nguyễn Văn Ruôn, đại đội trưởng Đại đội 899 biệt lập thuộc tiểu khu Phú Bổn ( Tức là Tỉnh Phú Bổn ) đã thấy các trung đội trưởng khác có mặt ở đó với vẻ mặt lo lắng. Không khí như dừng lại ngột ngạt đến khó thở. Tôi mừng thầm trong bụng và thầm nghĩ đến tin mật báo của ba tôi trước đây một tuần là chúng ta đã phát động chiến dịch 275 của Tổng tham mưu Quân đội Nhân Dân Việt Nam. Xin nói rõ thêm tin mật báo này, chỉ là thư tay thăm hỏi động viên tôi chiến đấu vững vàng, giữ vững lập trường và giữ gìn sức khỏe như các thư của các phụ huynh khác hỏi thăm con cái trong quân đội bình thường thôi, nhưng riêng thư của ba tôi lại được lồng vào những câu từ mật hiệu mà chỉ riêng ba con tôi mới hiểu, như vậy dễ dàng thông qua khâu kiểm duyệt thư của địch. Tôi nghĩ cơ hội của quân giải phóng đã đến. Vì sáng hôm qua quân giải phóng đã đánh vào sở chỉ huy quân sự Việt Nam Cộng Hòa ở Tiểu khu Daklak, Thành phố Ban Mê Thuộc rồi…


 …. Năm đó tôi vừa tròn 18 tuổi, sau khi ba tôi thoát được nhà tù của Mỹ Ngụy và được các đồng chí ở ấp Sào Nam Đà Lạt, Do đồng chí Nguyễn Văn Liễm cũng là bạn tù trong trại tù binh Tam Hiệp Biên Hòa với ba tôi, hẹn nhau khi ra được lao tù sẽ lên Đà Lạt hoạt động cách mạng tiếp. Chi bộ Sào Nam lúc bấy giờ do Dì Sáu Đạo làm bí thư chi bộ ấp Sào Nam, nhiệt tình kêu gọi bà con giúp đỡ, bố trí nơi ăn chốn ở cho gia đình tôi sinh sống và tiếp tục hoạt động bí mật trong lòng địch…Ấp Sào Nam là một ấp giải phóng, nằm ở ngoại ô phía đông bắc, cách thành phố Đà Lạt năm cây số. Ban ngày do bọn lính Địa phương quân, và các cơ quan chính quyền cấp ấp chiếm đóng, kềm kẹp người dân, phần đông là nông dân sản xuất rau hoa, thế nhưng đến khoảng năm giờ chiều là chúng nó trốn về Thành phố Đà Lạt sống với gia đình để tránh bị Quân giải phóng tiêu diệt.

    Hồi đó mỗi khi đêm xuống, các anh chị giải phóng về ấp là bọn trẻ con chúng tôi vui mừng, vì được các anh chị tập hát những bài ca cách mạng, được các anh chị giảng dạy cho hiểu Xã hội chủ nghĩa là gì và vạch rõ bộ mặt thật của bọn chính quyền cũng như lính địa phương quân là bán nước và đánh thuê cho giặc Mỹ…Riêng lứa mười bảy, mười tám tuổi như tôi thì mê những khẩu AK và thần tượng các anh chị chiến sỹ giải phóng lắm và nao nức được tòng quân, tham gia cách mạng đi chiến đấu tiêu diệt quân Mỹ ngụy, giải phóng Miền nam đem lại thống nhất, hòa bình cho quê hương. Nhưng các anh chị nói muốn tham gia cách mạng thì cũng phải có trí thức, các em cố gắng học tập cho giỏi để sau này ngày hòa bình thống nhất đất nước mới giúp ích xây dựng quê hương đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lời Bác Hồ đã dạy…Các em đang thế hợp pháp ở ngoài thành thì hãy cố gắng học thật giỏi nhé. Thế nhưng chỉ một số thanh niên trong đó có tôi là quyết tâm tiếp tục đi học văn hóa cho đến lúc thi lấy bằng tú tài, còn phần đông các bạn đều vào chiến khu, xung phong tham gia quân giải phóng.

    Nhà tôi chỉ là căn nhà vách gỗ lợp tôn, Ba mẹ tôi mở một quán tạp hóa vừa bán lặt vặt những nhu yếu phẩm cho bà con trong ấp Sào Nam vừa là cơ sở tiếp tế lương thực, và nhu yếu phẩm cho chiến khu Đông Bắc, Thị ủy Đà Lạt lúc bấy giờ.

     Mỗi tối khoảng tám giờ là phía sau bức vách phòng ngủ ba mẹ có tiếng cào cào ba tiếng, gõ nhẹ hai tiếng và gõ mạnh một tiếng…lại có tiếng thiều thào…chị Mai ơi…( Chị Mai là bí danh của mẹ tôi. ) Ba má tôi nghe rõ mật hiệu thì ra mở cánh cửa nhỏ bên hông nhà để các anh chị quân giải phóng vào mua hàng, và nhận những nhu yếu phẩm cũng như thồ những bao gạo của tổ chức tập kết về.

    Đầu năm 1970 đồng chí Sáu đen, bí danh của đồng chí Hoàng Tấn Đôn lúc đó là bí thư thị ủy Đà Lạt đồng ý cho tôi được tham gia cách mạng nhưng trong thế hợp pháp, chứ không thoát ly vào chiến khu, sau đó bố trí tôi hoạt động giao liên, cung cấp nhu yếu phẩm, lương thực v.v. cũng như thu tập những tin tức có giá trị của chính quyền ngụy ở thành phố Đà Lạt báo cáo cho chiến khu. Tôi hoạt động dưới sự chỉ đạo của Dì Bốn Bang tức đồng chí Phạm thị Bang nằm vùng bí mật tại cơ sở ấp Sào Nam. Thật sự tôi rất vui mừng và cám ơn các đồng chí đã đồng ý cho tôi tham gia cách mạng, đồng thời tôi cũng làm việc dưới sự chỉ đạo của ba tôi là đồng chí Nguyễn Mậu Đàn cán bộ tình báo của cục 2 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Nhân Dân Việt Nam. Ba tôi đã dìu dắt tôi vào con đường tình báo như thế đấy…

    Tháng 6 năm 1972 tôi vinh dự được chọn vào chiến khu Đông Bắc để học tập, địa điểm tôi được đưa vào chiến khu là Đồi Gáo, sở dĩ được gọi là Đồi Gáo vì ở đó có chiếc máy bay trực thăng nhỏ hình dạng cái gáo, được quân giải phóng đặt tên là chiếc Gáo, đã bị quân giải phóng bắn rơi. Các chiến sĩ đã đưa chiếc trực thăng Gáo hầu như nguyên vẹn ấy đặt ở đồi, thế là hình thành địa danh Đồi Gáo. Tại đây tôi được giao cho đồng chí F1 ( !?? ) sau này tôi mới được biết đó là bí danh của đồng chí Nguyễn Văn Trường cán bộ giảng dạy chính trị ở cơ quan Thị ủy Đà lạt. Sau thời gian học tập tại chiến khu tôi được quán triệt đường lối của Đảng, và hiểu rằng Đoàn thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh là cánh tay phải đắc lực của Đảng, là lòng nhiệt huyết tuổi thanh xuân hiến dâng cho Đảng, cho quê hương đất nước Việt Nam. Tôi cũng được học tập về sử dụng vũ khí, biết cách lấy vũ khí địch để diệt địch, thí dụ như lấy quả đạn M79 của địch chế biến lại thành quả đạn nhỏ cài đặt vào các vị trí đặc biệt để diệt địch, chẳng hạn như gài dưới yên ghế xe Honda của những tên điềm chỉ và công an mật của địch để tiêu diệt v.v…Tôi được mang bí danh F2 và điều về đơn vị Biệt Động Thành, Thành phố Đà Lạt dưới sự chỉ huy của đồng chí Bảy Lâm Viên.

    Tháng 11 năm 1973, tên Nguyễn Văn Nho, một chiến sĩ quân Giải phóng không chịu được sự hy sinh chiến đấu gian khổ trong chiến khu, đã phản bội về đầu hàng dưới chiêu bài ngọt ngào chiêu hồi của địch. Do đã đi đi về về ở ấp Sào Nam nên nó nắm rõ hết các gia đình nòng cốt cách mạng, nên khai ra hết để lập công với địch. Các đồng chí như Dì Sáu Đạo bí thư chi bộ Ấp Sào Nam, Dì Bốn Bang, đồng chí Hoàng văn Thược v.v…đều bị giặc bắt, riêng gia đình tôi được cơ sở của cục tình báo trung ương C2 bí mật đưa về ấp Đa Thiện cách ấp Sào Nam trên hai mươi cây số nên thoát được sự bắt bớ của địch, riêng tôi vẫn an toàn do Dì Bốn Bang không khai gì cho giặc, Sau đó ba tôi làm quen với Linh mục Phùng Cảnh và được ông ta bán cho hai hecta đất rừng ở đồi Thống Nhất và trở thành đất nuôi quân của quân giải phóng Tỉnh Lâm Đồng, trong lịch sử chiến đấu của  quân và dân Tỉnh Lâm Đồng có nhắc đến mảnh đất nuôi quân là đơn vị kinh tài của đồng chí Nguyễn Mậu Đàn.

     Cũng trong thời gian này địch ra lệnh tổng động viên, ráo riết bắt lính. Ba tôi lúc đó hàng tuần vào ngày thứ hai phải vào Ty Cảnh sát trình diện và những ngày lễ trọng đại của chính quyền ngụy đều bị bắt giam khoảng mười ngày cùng các đồng chí khác trong Tỉnh Tuyên Đức, tức là Tỉnh Lâm Đồng ngày nay. Do lo sợ tôi bị bắt lính nên ba tôi bàn với đồng chí Sáu đen cho tôi được thoát ly vào chiến khu. Sau đó các đồng chí ở cơ quan Thị ủy Đà Lạt và cơ quan cục C2 không đồng ý, vì tôi đang ở thế hợp pháp tại sao phải vào chiến khu đó là hạ sách, sau đó bàn với ba tôi là cứ để tôi đi học trường sĩ quan bộ binh trừ bị Thủ Đức công khai đưa được một tình báo vào hàng ngũ địch quân với phương châm là đi sâu và leo cao trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa đó là thượng sách. Tôi ra trường với cấp bậc Chuẩn úy và được điều động ra tiểu khu Phú Bổn tức là Tỉnh Phú Bổn lúc bấy giờ. Cũng nói rõ rằng ở chế độ VNCH không có chế độ khai lý lịch ba đời như nhà nước ta, nếu không ba tôi là cộng sản thì tôi khó mà ra trường sĩ quan được, mà chỉ ra trường với cấp bậc Thượng sỹ. Xin nói thêm ở chế độ VNCH là nếu anh không có bằng cấp thì khi bị bắt lính anh sẽ được đào tạo ba tháng ở quân trường Quang Trung với cấp bậc binh nhì. Nếu có bằng trung học ( Tương đương bằng trung học phổ thông cơ sở bây giờ thì đi học trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang. Học sáu tháng ra trường cấp bậc là Trung sỹ. Nếu có bằng tú tài thì được đưa đi học trường Sỹ quan bộ binh trừ bị Thủ Đức, ( Sỹ quan trừ bị là khi có chiến tranh thì tham gia quân đội, khi đất nước hòa bình thì trở về đời sống người dân. ) học một năm khi ra trường là Chuẩn úy, và mười tám tháng sau tự động thăng cấp bậc thiếu úy. Khi ra đơn vị mặc định là trung đội trưởng. Nếu có nguyện vọng chọn suốt đời binh nghiệp thì thi vào trường sỹ quan võ bị Đà Lạt, học bốn năm, khi ra trường là Thiếu úy và một bằng cữ nhân khoa học, và mười tám tháng sau tự động thăng cấp bậc trung úy. Khi ra đơn vị mặc định là đại đội phó.

     Khi tôi trình diện tiểu khu Phú Bổn thì được điều về đơn vị Địa Phương quân thuộc Đại đội 899 biệt lập, Đại đội biệt lập là trực thuộc sự chỉ huy của tiểu khu, khác với đại đội nằm trong tiểu đoàn là trực thuộc chỉ huy của tiểu đoàn, quân đoàn.v.v…Tôi với chức vụ trung đội trưởng, trung đội bốn chuyên trách vũ khí hạng nặng từ M72 chống tăng cho đến súng phóng lựu M79 và pháo cối 60 ly, pháo cối 80 ly và một khẩu đại bác 41 ly từ đời Pháp thuộc để lại v.v. Nói đến đây tôi phân tích sự thông minh của khối Cộng Sản Xã hội Chủ Nghĩa như sau : Nghĩa là nếu ta tịch thu được đạn cối 60, 80 ly của địch thì ta vẫn sử dụng được vì pháo cối của ta là cối 61 ly và 81 ly, tuy lúc bắn thì đạn của địch nhỏ hơn nòng pháo của ta nên độ chính xác sẽ sai, nhưng nếu ta tính toán thêm thuốc bồi là bắn được mục tiêu mong muốn, trong khi nếu địch chiếm được các đạn cối của ta thì không thể sử dụng được do đạn pháo cối của ta lớn hơn nòng pháo cối của ngụy một ly, nên quả đạn cối đó không thả vào nòng pháo được để bắn…Đại đội tôi đóng quân ở tiền đồn khu vực Xã Pleipak nhiệm vụ quản lý bốn buôn làng xung quanh và bảo vệ cây cầu Pleipak bắt qua sông Ayun Pa.

     Tiểu khu Phú Bổn lúc đó do tên Trung tá Lò Văn Bảo làm tiểu khu trưởng, tức là Tỉnh trưởng Tỉnh Phú Bổn, đây là tên dân tộc Thái nhưng không hiền từ chân thật như đồng bào Thái ngoài Điện Biên, mà nó đã tham gia đi lính từ thời lính Pháp, di cư vào Nam nên rất thâm hiểm, độc ác.

     Lại nói về cuộc họp Ban chỉ huy sáng hôm đó, tên Trung úy đại đội trưởng tay nắm chặt ly cà phê, chậm rãi nói tôi vừa nhận lệnh của tham mưu trưởng Tiểu khu là ngay hôm nay đơn vị chúng ta phải di chuyển về Chi khu Thuận Mẫn để hổ trợ cho đại đội 864 đang bị Việt Cộng bao vây. Ngay chiều hôm đó những chiếc trực thăng UH - 1 liên tục đáp xuống sân đại đội đưa chúng tôi đến chi khu Thuận Mẫn. Khi chiếc trực thăng cuối cùng đáp xuống cũng là lúc hoàng hôn bắt đầu, ánh mặt trời đỏ quạch nhanh chóng hạ xuống. Trước khi màn đêm buông xuống tôi ra lệnh cho binh sĩ đào hố cá nhân, sau đó đến ban chỉ huy đại đội để nhận kế hoạch chiến đấu. Tên trung úy đại đội trưởng dốc cái bình tong ngữa mặt lên uống một ngụm nước rồi nói, nhiệm vụ của đại đội ta là tái chiếm đồi Thuận Mẫn nơi đồn trú của đại đội 864 biệt lập đang bị Việt Cộng bao vây. Trung đội một và trung đội hai mở đường, làm hai nhánh đi hai bên cạnh đồi rồi đến trung đội ba và ban chỉ huy đại đội do tôi phụ trách đi chéo theo hướng quốc lộ 14 vào hổ trợ cùng trung đội bốn. Trung đội bốn do Thiếu úy ( là tôi ) đại đội phó kiêm trung đội trưởng trung đội bốn khóa đuôi và hổ trợ vũ khí nặng câu thẳng vào đồn tái chiếm lại điểm cao nơi tiền đồn đại đội 864 trú quân.

Tôi phát biểu, hiện tại đơn vị ta là đại đội thiếu, chỉ hơn hai trăm binh sĩ, nếu trung úy đại đội trưởng chia hai trung đội đánh thọc hai bên sườn, trung đội ba cùng ban chỉ huy đại đội đánh chéo chặn đường rút lui của Việt cộng và trung đội bốn đánh thẳng lên thì chỉ có tổn hao binh sĩ, và thất trận vì trung đội bốn mang tiếng là trung đội vũ khí nặng, nhưng vũ khí chủ yếu là cối 60 và 80 ly thì không thể nào đánh chiếm đồi được, vì chiến thuật đánh đồi là tiền pháo hậu xung dựa theo chiến thuật trong Tôn Ngô binh pháp. Tôi đề nghị Trung úy cho phép mở khu định cư, đây là cách nói bí mật của lệnh KDC tức là gọi pháo binh bắn vào những tọa đội đã định trước khi đi hành quân. Thí dụ Chi khu Thuận Mẫn gọi là Tango, khu Charly, khu Bravo v.v lúc đó pháo binh họ sẽ mở KDC thiết lập tọa độ đã định sẵn và pháo kích, tiếp đến bộ binh mới đánh lên. Thật ra tôi biết tính cách của tên trung úy là luôn tìm cách lập công để thăng tiến, và đây là dịp hắn thể hiện tính cách hăng máu để lập công, nên tôi nói kích hắn như vậy, quả nhiên, khi nghe tôi đề nghị mở KDC hắn gạt phắt ra, nhìn tôi rồi nói nếu thiếu úy hèn thì tôi sẵn sàng kỹ luật đó. Tại sao ta phải mở KDC trong khi lực lượng ta thừa sức chiến đấu. Cứ pháo 60 và 80 ly cấp tập để Việt Cộng không ngóc đầu lên được, lúc đó ta nhanh chóng tiến quân lên.…Không ai được bàn ra nữa, hãy đánh nhanh tạo thế bất ngờ mới đánh thắng Việt Cộng cứu đại đội 864 được, sau khi tái chiếm đại đội 899 kết hợp đại đội 864 càng quét địch quân chặn đường rút vào rừng của bọn Việc Cộng.

    Sau đó hắn ra lệnh vào buôn làng mua bốn can rượu trắng, loại 20 lít một can để sáng sớm mai cho binh sĩ uống trước khi lâm trận, lính đại đội của tôi chủ yếu là lính người dân tộc Ê Đê nên rất mê uống rượu. Sáng sớm hôm sau, lệnh đại đội trưởng cho binh sĩ uống rượu để tạo sự kích thích,hăng say chiến đấu. Khi vui say uống rượu ngà ngà tên lính nào cũng say máu thúc dục đại đội trưởng ra lệnh xuất phát.

    Bảy giờ sáng, theo kế hoạch đã bàn trung đội một xuất phát đi bên trái, trung đội hai đi bên phải, riêng ban chỉ huy của đại đội cùng trung đội ba đi lệch sang bên trái hướng ra quốc lộ 14. Tôi cho tiểu đội một và tiểu đội hai dàn hàng ngang đi lên, tôi và tên truyền tin vác máy bộ đàm PRC 25 đi bên phải, tên cận vệ đi bên trái tôi ngà ngà say, nó đeo hai dây đạn R16 chéo ngang người cười cười nói em quyết bảo vệ thiếu úy. Tôi bảo tên cận vệ nói truyền lệnh lên bảo hai tiểu đội một và tiểu đội hai hai đi chậm lại chờ lệnh tôi, ý tôi là thăm dò tình hình chiến sự như thế nào để tiện bề rút quân vào rừng trốn chạy…Bỗng tôi nghe những tiếng la lớn, lính mình đừng bắn, lính mình đừng bắn…tôi ngước nhìn lên sườn đồi thì thấy những người lính đang chạy xuống và rồi…đùng đùng, cắt cắt..đùng…tiếng súng nổ ngắn đanh thép và đục. Trời ơi đó là tiếng AK 47…Thì ra sau khi tiêu diệt được đại đội 864, các chiến sĩ quân giải phóng đã lấy quân phục của lính mặc vào để ngụy trang thành lính ngụy, đánh bật từ trên xuống…Tôi hô lớn cho lính hãy dạt qua hai bên rồi nằm sát xuống. Tôi cận vệ kéo tôi nhảy vào núp sau gò mối thì một tiếng nổ lớn hất văng tôi lên cao rồi rơi xuống đất, do sức ép của quả đạn nên miệng tôi đầy máu mặn và cát đầy miệng nhai rạo rạo, tên lính truyền tin gục chết, tôi vội kéo chiếc máy PRC 25 trên người nó ra rồi kêu tên cận vệ. Bình ơi! đâu rồi…nhưng tên cận vệ đã chết, hai tay còn ôm chặt khẩu R16 mắt mở trừng trừng. Thật tình lần đầu tiên tôi thấy sức công phá của đạn B40, nó cày một đường dưới đất thành cái mương sâu chạy dài khoảng hơn hai mét… Sức ép của quả đạn hất văng lên trời cả chục người, rất may tôi không bị thương tích gì, chỉ bị hộc máu nhẹ…Toàn thể đại đội 899 chưa kịp triển khai đã bị quân giải phóng tiêu diệt tan tác nhanh chóng…

    Tiếng máy bộ đàm xè xè vang lên. Chim sẻ thế nào? chim sẻ thế nào over. Đưa quân qua trái vào quốc lộ 14 mau. over. Trời ! quân nào nữa mà quân, cái trung đội bốn của tôi bây giờ chỉ còn mười hai tên lính thôi.Tôi trả lời. Đại bàng! đại bàng! chỉ còn mười hai mua đồ. over ( Ý là chỉ còn mười hai tên lính mở đường.) Khi tôi dẫn quân qua gặp tên trung úy đại đội trưởng thì hắn cũng chỉ còn đúng vỏn vẹn…năm tên lính. Hắn nói tôi rút xuống bìa rừng chờ lệnh và chờ xem còn chiến sĩ nào trở về được thì tập hợp lại. Rốt cuộc cả đại đội 899 hơn hai trăm tên lính, chỉ còn lại khoảng hơn một trăm, còn lại là chết và mất tích. Đến khoảng mười một giờ trưa, chiếc máy bay trinh sát L19 bay vòng vòng trên trời và giọng tên trung tá tham mưu trưởng vang lên trong máy PRC 25 của tôi ( Cả đại đội có năm chiếc máy PRC 25, bây giờ chỉ còn mỗi cái của tôi) 899! 899! Anh em đi Rạch Giá gấp, đi Rạch Giá gấp over. Tên trung úy lập lại hiệu lệnh 899! 899! đi Rạch Giá, đi Rạch Giá over. ( Ý nghĩa là cho đại đội 899 rút lui gấp.)

    Ngày 13 tháng 3 năm 1975, sau một tuần cắt đường rừng cuối cùng chúng tôi cũng về được trung tâm Phú Bổn, và biết tin Ban Mê Thuộc đã thất thủ vào tay quân giải phóng. Đêm đó tôi bàn với đại đội trưởng cho binh lính chia làm hai nghỉ ngủ hai ven lề đường trên phố.

    Tờ mờ sáng hôm sau khi đang còn ngái ngủ tôi đã nghe tiếng bánh xích của những chiếc xe tăng M 48 và thiết giáp M113 nghiến trên đường, tôi chạy ra hỏi với theo đơn vị nào vậy, có tiếng trả lời loáng thoáng Biệt động quân ở sư đoàn hai rút về…lại có tiếng mất Ban Mê Thuộc rồi…Tôi hoang mang chạy vào hỏi đại đội trưởng thì cũng vừa lúc tên trung úy vất cái combine máy PRC 25 xuống đất..ĐM !!! tụi nó bay hết rồi, tôi gọi Tiểu khu trưởng và Tham mưu trưởng đều im hết…nghe mấy đứa Biệt động quân nói Tổng thống Thiệu lệnh di tản về Nha Trang bỏ hết Tây Nguyên rồi. Thiếu tướng Phạm Văn Phú ( Tướng Phú là tư lệnh Quân khu II cao nguyên trung phần ) đã bay từ hôm qua, tên trung úy lại chưởi thề ĐM bọn nó hèn… Sau đó tên đại đội trưởng bàn với tôi hãy giải tán đại đội chờ lệnh sau, mạnh ai tìm đường về nhà nấy, hắn ta chọn một số lính đi theo, riêng tôi có tám tên đòi theo. Chúng tôi đi bộ về hướng Pleipak về hướng Chi khu Phú Trúc theo đường tỉnh lộ Bảy…

   Chưa đầy một tiếng sau khi chúng tôi chưa kip đi, thì từng đoàn người gồng gánh đồ đoàn cá nhân ào ào đi đến, nào ông già bà lão, phụ nữ, thanh niên cùng những người dân dáo dác chạy, có những người lính đưa cha mẹ vợ con cùng chạy, tiếp theo là cả dòng xe tải, xe GMC của lính chở đầy người, phần đông là thân nhân của binh lính bỏ chạy. Họ từ thành phố Pleiku chạy xuống. Tôi chặn một anh lính lại hỏi chuyện gì mà di tản dữ vậy? anh ta trả lời chẳng hiểu chuyện gì, chỉ thấy trong đêm xe tăng và xe GMC chở lính cùng khí tài rút khỏi Pleiku thì dân bỏ chạy theo, ai cũng nói lính bỏ chạy thì dân ai bảo vệ cho nên sợ quá chạy theo thôi…Chẳng mấy chốc cả biển người, cùng xe cộ nườm nượp chạy, ngoài xe tăng, xe bọc thép, xe GMC của lính thì cũng có những xe của người dân như xe Honda, xe tải, xe con và bất cứ phương tiện di chuyển nào kể cả xe bò của nông dân…chen nhau chạy. Cả biển người như con nước lũ truôn trào chạy về hướng Chi khu Phú Túc. Chúng tôi đi theo đoàn người di tản, hai ngày sau thì qua được khu Pleipak và bắt đầu đi vào đường tỉnh lộ Bảy, vượt qua sông Ayun pa. Xe cộ và dòng người mỗi ngày một đông lên và tình trạng kẹt xe nghẽn đường bắt đầu có sự cố…

    Những chiếc xe GMC chở lính cố chen lên, trong đó có chiếc GMC chở đầy lính rú ga gầm rú vượt lên liền bị tên lính Biệt động quân trên xe tăng nhảy xuống mở cửa lôi tên tài xế xuống, ĐM mày muốn chạy trước để sống à? thằng Thiệu đã khốn nạn bây giờ mày cũng khốn nạn theo hả ? Đùng! tiếng đạn phát lên và tên lính quằn quại dưới đất. Tên lính khác trên xe thấy vậy liền nhảy xuống leo vào buồng lái nổ máy chạy tiếp, chiếc xe cán ngang qua tên lính đang hấp hối rời đi, bà con nhìn cảnh tượng đó sợ hãi hét toáng lên trời ơi là trời!!! Trên đường di tản tội nhất là các em bé, người già và phụ nữ, nhất là những phụ nữ mang thai đến thời kỳ sanh nở phải đẻ bên vệ đường, gia đình phải giúp đỡ sanh và cắt rốn..đại chứ có hiểu biết gì hộ sanh đâu, sanh xong vào buôn làng xin họ mua thuốc uống sau đẻ nhưng họ nói đó là bí quyết của ông cha để lại, không cho không bán. Người chồng phải cõng vợ đi, con thì người nhà ẳm theo, có những ông bà già quá không đi nỗi con cháu phải làm võng đưa đi, tôi nghĩ không biết những người này có sống sót nỗi giữa cái nắng như thiêu đốt và cái đói cái khát bám từng ngày không. Trên đường đi nhiều xác chết nam có nữ có đều khô, dẹp lép như con mực khô, do xác không ai chôn cất và đoàn xe cán lên từng ngày dưới cái nắng như thiêu đốt của tháng ba tây nguyên nên khô cong. Có những đứa trẻ không chịu nỗi đói khát đã chết, cha mẹ tìm cách đào bên vệ dường rồi lấp vội bỏ đi, có đứa lạc cha mẹ kêu gào khóc, có cha mẹ lạc con kêu gào thảng thốt tìm con tạo nên khung cảnh hoảng loạn chưa từng thấy, trên đường tỉnh lộ bảy, chỉ cần lạc nhau trong vài phút là mất tích, nhất là các em bé bốn năm tuổi v.v. Sau này trong chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly, có những gia đình tìm được con mình do được các gia đình dân tộc Ê Đê cưu mang nuôi nấng.

Lúc đó một gói mì hoặc một lon gạo đổi cả cây vàng nhưng những người có mì có gạo họ không đổi, ai cầm bình tong xuống suối múc nước lên đổi một bình tong nước mười lượng vàng họ cũng chen nhau đổi.

   Trên đường đi có những chiếc xe Honda còn mới nhưng hết xăng vất lăn lóc không ai lượm, máy may, bếp gas, quạt máy và những dụng cụ gia đình người ta vất đầy, vì lúc ra đi ai cũng cố gom góp mang theo, nhưng càng ngày càng đói khát và thấy sự sống quan trọng hơn nên vất bỏ dọc đường tỉnh lộ bảy rất nhiều. Lại có cả chiếc xe tải của kho bạc tỉnh Pleiku bị lật ngang ven đường, cửa sau mở toang, từng cọc tiền còn mới văng ra theo nhưng chẳng ai đoái hoài nhặt, vì tiền bạc không còn ý nghĩa nữa. Bây giờ chỉ có thức ăn và nước uống là thiết yếu. Trong ngày, lâu lâu cũng có vài chiếc trực thăng bay thả bánh mì, mì gói và những can nước xuống tiếp tế. nhưng chỉ như muối bỏ biển vì lượng người đông quá, người ta dẫm đạp chen nhau giành giựt tạo nên cảnh tượng rất hãi hùng mà khó diễn tả, tôi do những tên lính đi dành giựt mang về khi thì ổ bánh mì, khi thì vài gói mì gói mở ra ăn sống uống nước cũng tạm qua ngày…

    Có lúc đang đi, bỗng ai đó hét toáng lên bà con ơi! Việt Cộng, Việt Cộng kìa thì ôi thôi!!! cả lính cả người dân thi nhau bỏ chạy dẫm đạp lên nhau, những tên lính Biệt động quân mệnh danh là lính anh hùng Mũ nâu giờ đây mềm như cọng bún, nghe nói đằng sau có Việt Cộng là thôi cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng. Tôi thấy lính quân đội VNCH hèn nhát quá. Vài ngày sau đoàn người di tản mỗi lúc mỗi đông hơn do số người ở Pleiku, Chu Sê, Phú Bổn v.v. cũng tháo nhau bỏ chạy theo đoàn di tản ở tỉnh lộ bảy…Cuối cùng đoàn di tản bị dừng lại bãi đất trống của đập Đồng Cam Phú Yên vì không thể đi được do quân giải phóng chiếm đóng ở khu vực bên kia đập khoảng năm cây số. Quân Ngụy gọi máy bay F- 4 Phantom ném bom liên tục đến nỗi cả một mảng núi ven tỉnh lộ từ màu xanh bị cày sới thành một vùng đất đỏ rộng lớn, nhưng hễ qua đợt ném bom các đoàn đầu di tản tiến lên lại bị quân giải phóng chận đánh không cho tiến thêm. Ai cũng bảo nhau thế Việt Cộng họ trốn vào đâu mà bom đánh thế kia họ vẫn còn, vẫn sống!? Cuối cùng quân ngụy bắt đầu tính đến chuyện di tản bằng đường không vận, họ cho trực thăng CH - 47 Chinook và trực thăng UH – 1 đáp vội xuống để chở người dân. Mỗi chiếc hạ xuống chừng hai phút là cất cánh vì sợ Việt Cộng bắn hạ, người dân chen chúc leo lên, khi máy bay cất cánh có những người đu càng trực thăng mong được thoát khỏi nơi đó càng nhanh càng tốt, nhưng hỡi ơi! khi trực thăng bay lên độ cao và bay được vài cây số thì những người đu càng rơi rụng, nhìn từ xa thấy những bóng đen nhỏ xíu lần lượt rơi xuống đất…

    Đến lúc này tôi nói với đám lính theo tôi, anh em cứ từ tìm đường về nhà đi, ai nhanh chân chạy đến trực thăng hạ xuống thì thoát, chứ đi cả đám như bây giờ là khó khăn lắm, tên trung sĩ tên Kim nói vậy ai lo cho thiếu úy? Tôi bảo anh em cứ đi tôi tự lo được. Anh em nắm tay nhau rồi mọi người buông tay rời đi vào đám đông di tản kia. Trực thăng vẫn tiếp tục ném bánh mì và nước xuống tiếp tế, lại chen nhau dẫm đạp, chửi bới vang trời, tôi nhìn ngao ngán và chẳng thấy đói. Chiều dần buông xuống, tôi và vài người đàn ông xuống khe suối dưới núi lấy nước…

    Chúng tôi đang lom khom khoát nước rửa mặt , húp từng ngụm nước mát lạnh, khi đang ấn bình tong xuống nước để lấy nước bỗng vang lên tiếng đanh thép… Các anh đứng dậy hai tay để trên đầu, mọi người quay phắt lại làm theo hiệu lệnh của các anh giải phóng. Từng người một được dẫn đi vào phía trong rừng, tôi cố ý đi sau cùng và nói nhỏ với anh giải phóng, tôi là quân mình, cho tôi gặp chỉ huy, anh giải phóng quay lại nhìn tôi quát lớn im mồm, nhưng tôi vẫn nhìn anh nháy mắt ý là quân mình, rồi theo anh đi theo đám người bị dẫn đi. Khi màn đêm buông xuống, trong hầm chỉ có cây đèn dầu tự chế bằng chai lọ nhỏ đựng dầu, phát ra ánh sáng le lói chập chờn…Lúc đó có anh giải phóng đến đem theo vài gói mì và vài chai nước phát cho từng người, sau đó chỉ vào tôi nói lớn, anh này đi theo tôi, những người còn lại nhìn tôi với ánh mắt ái ngại. Tôi được dẫn qua hầm khác có lẽ là hầm chỉ huy, khi bước vào tôi thấy một chú có vẻ lớn tuổi và vài anh chiến sỹ trẻ. Chú bảo tôi ngồi vào chiếc ghế đan bằng tre nho nhỏ.Tôi vẫn ngại không dám ngồi thì chú đứng dậy đi về phía tôi ấn vai tôi ngồi xuống rồi ân cần hỏi tôi, tôi nghe báo cáo anh nói là quân mình à, vậy anh là ai? Lúc này tôi đã bình tĩnh đứng dậy báo cáo thủ trưởng cháu là F2 thuộc cơ quan Biệt động thành, thành phố Đà Lạt do chú Bảy Lâm Viên chỉ huy, trực thuộc Thị ủy Đà lạt do chú bí thư Sáu đen Huỳnh Tấn Đôn chỉ đạo ạ. Chú ấy nghe tôi báo cáo xong thì ánh mắt vui và nói với anh chiến sỹ cho đồng chí truyền tin lên gặp tôi nhận công điện truyền cho Thị ủy Đà Lạt tỉnh Tuyên Đức. Chú lại ân cần hỏi trong đơn vị lính ngụy cháu cấp bậc gì? ( Do lúc đó tôi đeo quân hàm ngụy trang là hoa mai màu đen để tránh bị quân giải phóng bắn tỉa sĩ quan bên ngụy nên chú không chú ý.) Dạ báo cáo chú cháu là thiếu úy đại đội phó đại đội 899 biệt lập đóng quân ở Xã pleipak ạ. Chú lại gật đầu và hỏi tiếp, Vậy nhiệm vụ đặc biệt cách mạng giao phó là gì? Dạ thưa chú là nhiệm vụ nội tuyến độc lập trong hàng ngũ địch quân ạ. Chú lại gật gật đầu rồi nói thôi cháu về ngủ đi. Lần đầu tiên tôi thấy anh chiến sỹ quay cái tay quay máy điện thoại gọi ai đó, vài phút sau có anh chiến sỹ đến nhận bức điện do chú ấy viết và nói đánh điện gấp. Sau đó tôi được đưa về lại hầm cùng các người kia, ai cũng hỏi tôi họ đưa đi đâu vậy, tui tôi tưởng họ đem anh đi thủ tiêu rồi, tôi cười nói họ chỉ hỏi tôi tên gì ở đơn vị nào thôi.

    Sáng hôm sau mọi người được thả ra và được dặn cấm bén mảng xuống đây lấy nước, chúng tôi không bảo toàn tính mạng đâu nhé, mọi người ríu rít dạ, dạ…riêng tôi thì giữ lại đưa qua hầm chỉ huy. Khi qua hầm chỉ huy, anh chiến sĩ trẻ đưa tôi chiếc áo sơ mi và quần âu nhưng nhàu nát và dơ dáy lắm, anh ta bảo thủ trưởng dặn anh thay bộ này rồi tiếp tục đi về đơn vị, không được mặc quân phục lính ngụy nữa chứ không lại bị bắn nhầm thì khổ, may mắn không đến lần hai đâu. Tôi thay xong thì gặp chú chỉ huy đi vào, chú bắt tay rồi bảo tôi cố gắng lên nhé, tôi nắm chặt tay chú cám ơn rồi leo lên núi. Sau này đã nhiều năm trôi qua nhưng tôi không bao giờ gặp lại chú ấy nữa, nếu còn sống năm nay có lẽ chú ấy ngoài tuổi chín mươi.

    Tôi lên bụi cây chiều hôm qua dấu chiếc ba lô, may quá vẫn còn, trong đó có một vài gói mì tôm, một bản đồ quân sự tỷ lệ 1/ 25000, cái la bàn và hai cây súng, một cây roulo và một cây colt 45 từ đơn vị tôi đem theo. Tôi dấu chiếc bản đồ, la bàn và cây súng roulo xuống đáy balo, cây colt 45 tôi để gần trên nắp balo và dấu dưới mấy gói mì tôm để dùng đề phòng tự vệ. Tôi đảo mắt nhìn lên trời, xa xa có chiếc chinnook đang bay tới, tôi đeo ba lô chạy thục mạng đến cái bãi đáp thường ngày họ hay đáp xuống, mọi người ùn ùn chạy theo về phía máy bay, quả như dự đoán chiếc Chinnook bay vòng qua một vòng quan sát rồi từ từ hạ xuống, có hai tên lính đẩy tôi ra sau để tranh dành lên trước, khi cánh cửa sau vừa hạ xuống đất thì hai tên lính nhanh chóng chạy đến định leo lên nhưng không ngờ bị hai tên phi công đạp xuống và hét lớn mấy anh phải ở lại chiến đấu, chúng tôi chỉ rước dân, tôi nghe vậy vội lao đến thì viên phi công nắm tay tôi kéo mạnh lên, tôi hét lên thoát rồi…Sau khi đưa được nhiều người dân lên, chiếc trực thăng bay lên không trung, tôi nhìn xuống thấy một biển người rộng lớn và thầm nghĩ không biết bao nhiêu thời gian nữa họ mới bốc hết số người dân bên dưới…

    Chiếc trực thăng Chinook hạ cánh xuống một sân trường trung học ở Phú Yên, có đoàn thanh niên học sinh tình nguyện ra tận cửa máy bay đón chúng tôi xuống đưa vào các lớp học, họ đưa bánh mì và nước cho mọi người. Sau đó đưa qua phòng hội trường và phát mỗi người một tờ giấy A4 trong đó in sẵn tên tuổi, quê quán, nơi ở v.v. giống như tờ khai lý lịch vậy. Tôi khai tên là K’sor Hem người dân tộc Ê Đê ( Do hàng ngày tôi bắt tên cận vệ dạy tôi nói tiếng Ê Đê để dễ giao tiếp với lính và người dân.) ở Buôn Blung xã Pleipak v.v và v.v…Tôi tự tạo cho mình một lý lịch đơn sơ cho dễ nhớ, vì biết chắc tụi nó sẽ bắt kê khai nhiều lần xem có trùng khớp với những lần khai trước không, vì khi trong quân trường sỹ quan tôi đã học tình báo và kỹ thuật khai thác địch quân nên tôi hiểu.Tối đó tôi được tin qua mấy người lính nói chuyện với nhau là Quảng Trị thất thủ…

    Sáng hôm sau họ đưa những chiếc xe GMC đến chở người dân tị nạn vào Trại tị nạn ở Đồng Đế Nha Trang, khi đến trại tị nạn Đồng Đế tôi bị khai lại lý lịch một lần nữa…Tôi ở đó vài ngày cho họ tin tưởng rồi xin đi gặp người thân trong Nha Trang, Tên Đại úy trưởng trại hỏi tôi ở Nha Trang có ai bà con? Tôi bảo có gia đình ông K’sor Som đi lính, đóng quân ở phi trường Nha Trang. Ông ta gật đầu rồi viết giấy xuất trại cho tôi. Tôi xin đi quá giang chiếc xe GMC về Nha Trang nhận nhiệm vụ gì đó. Thật ra tôi kiếm cớ để trốn khỏi trại tị nạn, về tìm nhà ông tôi là Nguyễn Mậu Phù làm giáo viên, nhà ở đường Trần Nhật Duật. Gặp tôi ông mừng rỡ và hỏi mi về đây bằng chi rứa, dạ thưa ôn con được trực thăng bốc về ạ…Bỗng ông hạ giọng nói Tam Kỳ mất rồi đó, không khéo bên Việt Cộng họ thắng đến nơi hè…Tôi mĩm cười nói an ủi rồi vỗ về cho ông yên tâm, răng mà thắng được ôn hè, Quân lực VNCH hùng mạnh như rứa, vũ khí hiện đại như rứa mà, đây là chiến thuật lùi một bước để tiến lên hai bước của Tổng thống Thiệu đó ôn ơi. Ông lại nói mi nói chi rứa, ở đây các ông to bà lớn và những gia đình giàu có đều đưa gia đình ra hạm đội bỏ trốn hết rồi, họ chạy hết rồi con ơi, chỉ còn dân nghèo không biết chạy đi mô, đành ở lại như gia đình ôn thôi. Đã trốn chạy Việt Minh từ hồi năm tư, chừ họ lại đến mà lần ni biết di cư ở mô nữa. Tôi cười nói răng ôn không mong quân giải phóng hoàn toàn thắng lợi trong miền nam, lúc đó hết chiến tranh, trai tráng khỏi đi lính chết chóc nữa ôn ạ. Thống nhất đất nước, hòa bình lập lại cuộc sống người dân tự do và tốt hơn ôn à…Ông nghe chỉ gật đầu nhưng im lặng. Đến tối sau khi ăn cơm xong tôi thưa với ôn mệ là cho con ít tiền đủ mua vé về Đà Lạt vì ba mẹ con bây giờ lo lắng lắm. Ôn gật đầu nhìn về phía mệ nói mạ mi cho cháu ít tiền đi hỉ.

    Sáng hôm sau, ôn nói O Vân là chị cả trong nhà lấy Honda chở tôi ra bến xe về Đà Lạt, O nói khi mô yên lành O đưa ôn mệ lên Đà Lạt chơi thăm anh chị Đàn, tôi dạ và chia tay O lên xe đò về…Chiếc xe đã chạy ra khỏi cổng tôi ngoái nhìn lại vẫn thấy O ấy nhìn theo, tôi thở dài lòng nao nao một nỗi buồn…Tôi về đến Đà Lạt khoảng năm giờ chiều, mẹ tôi ôm tôi khóc, rồi mấy đứa em cũng khóc theo, ba tôi ở bên nhà hàng xóm nghe tin tôi về cũng về nhà, ông nhìn tôi gật đầu nói con về rồi à, hai khóe mắt rươm rướm nước mắt…Tôi ở Đà Lạt cho đến khi Huế, Đà Nẵng thất thủ, hàng loạt tỉnh thành ở miền nam nối đuôi nhau thất thủ như hiệu ứng domino. Thời cơ đã đến, ba tôi chỉ thị con tiếp tục xuống Saigon liên lạc và nhận nhiệm vụ mới với hai đồng chí là Nguyễn Văn Hớn, thuyền trưởng tàu viễn dương và chú nhà văn Vũ Hạnh ( Cả hai là gián điệp nằm vùng thuộc T4 Sài Gòn, hoạt động vùng Sài Gòn Gia Định Chợ Lớn .) trước đây ở cùng trại tù binh Tam Hiệp Biên Hòa với ba đó. Ba tôi nói chiến dịch 275 bây giờ đại tướng võ Nguyên Giáp và quân ủy trung ương đổi thành chiến dịch Hồ Chí Minh với tinh thần “ Thần tốc và thần tốc hơn nữa. Táo bạo và táo bạo hơn nữa…

    Thế là tôi lên đường đúng vào ngày Thành phố Đà Nẵng được giải phóng 29 tháng 3 năm 1975, trên đường đi tôi được tin Thành phố Đà Lạt được giải phóng ngày 02 tháng 4 năm 1975. Tôi đi bộ và quá giang các đoàn xe GMC của trường Sĩ quan võ bị Đà Lạt, đang chở lính là sinh viên sỹ quan tháo chạy về Sài Gòn và bất cứ phương tiện nào tôi xin quá giang được…Cứ thế vừa đi bộ vừa đi xe thì mười ngày sau tôi đến Sài Gòn, gặp được đồng chí Nguyễn Văn Hớn rồi nhận nhiệm vụ chờ đón dẫn đường cho quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Tôi được phân công vào đội thanh niên tự quản khu Thị Nghè chờ đón quân ta tiến vào ở ngã ba Hàng Xanh. Anh em chúng tôi chạy xe Honda 67 chờ ở ngã ba Hàng Xanh, khi thấy những chiếc xe tăng đầu tiên, anh em chúng tôi nhanh chóng rút dãi khăn đỏ cột vào cánh tay và đồng loạt lấy lá cờ xanh đỏ sao vàng của Mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam dấu trong bụng ra phất cao ra hiệu cho những chiếc xe tăng chạy vào hướng Thị Nghè, qua Thảo cầm viên để tiến về dinh Độc Lập… Tôi được chứng kiến thời khắc hào hùng mà lòng phơi phới tự hào khi quân Gải phóng rầm rập tiến vào Sài Gòn theo của ngõ Thị Nghè…Một thời khắc tự hào nhớ mãi trong tim…

    Những ngày đầu giải phóng tôi nhận lệnh về công tác tại Phòng Văn hóa Thông tin Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh do chú Nguyễn Văn Hớn làm trưởng phòng…Mới đó mà đã năm mươi năm trôi qua, lúc ấy tôi chỉ mới vừa tròn hai mươi bốn tuổi…cả tuổi thanh xuân dành cho cách mạng đến bây giờ…   

                                                                                                                              Đà Lạt, ngày 20/4/2025
IMG 20250421 155749IMG 20250421 155754

THĂM QUÊ

Cuối năm 2022, tôi về thăm quê cùng phụ giúp "Đêm Nhạc Quê Hương" và năm 2023 này nhân có sự kiện của gia đình, tôi lại về thăm quê cùng dịp nhưng vì bận công chuyện thời gian ở quê không được nhiều.

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 41 NĂM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM (20/11/1982 - 20/11/2023). Nhân kỷ niệm 41 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2023), BBT xin gửi đến quý vị và các bạn những bài viết thấm đượm tình cảm thầy trò thân thương về chủ đề này. Sau đâ

Nhân kỷ niệm 41 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2023), BBT xin gửi đến quý vị và các bạn những bài viết thấm đượm tình cảm thầy trò thân thương về chủ đề này.
Sau đây là một bài viết trong số đó được viết từ từ năm 2015 của tác giả Nguyễn Thanh Tùng.
Trân trọng!

CHỊ MAI, NGƯỜI CHIẾN SỸ GIAO LIÊN

Người ta thường nói: "Phía sau sự thành công của một người đàn ông luôn có bóng dáng người phụ nữ". Điều đó không chỉ đúng trong cuộc sống bình thường mà còn rất đúng trong quá trình hoạt động cách mạng của nhà tình báo Nguyễn Mậu Đàn. Người phụ nữ đó vừa là người vợ, người bạn và là người đồng chí cùng chung chiến hào trong đường dây hoạt động bí mật của Đoàn 1752 Cục C2 tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam Trung úy Nguyễn Thị Linh - bí danh "Chị Mai".
Nhân kỷ niệm 48 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Lãnh đạo làng Trần Xá và BBT kính chúc bà Nguyễn Thị Linh, người con dâu của làng Trần Xá, một nhân chứng sống của lịch sử (hiện bà đã 95 tuổi) luôn sức khỏe, sống lâu và hạnh phúc bên con cháu.
Sau đây xin gửi đến quý vị và các bạn bài viết của anh Nguyễn Mậu Trường con trai của hai vợ chồng nhà Tình báo Nguyễn Mậu Đàn - Nguyễn Thị Linh về người mẹ kính yêu của mình - Nguyễn Thị LInh.
Trân trọng!
BAN BIÊN TẬP